Tượng thích ca mâu ni sơ sinh, tượng phật đản sinh bằng đồng
Nhận làm tượng phật bằng đồng theo yêu cầu
Thông tin chi tiết vui lòng liên hệ :
Mỹ Nghệ Đông Đô 668 Quang Trung - Hà Đông - Hà Nội
Điện thoại : 0433 511 175 - 0976 727 896 - 0974 117 169
Email : mynghedongdo@gmail.com
Website : mynghedongdo.vn
>>Tượng tam thế phật
>>Tượng quan âm bồ tát
Danh Hiệu Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch
Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên
tĩnh.
Lược Sử
Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Ðộ có vị thánh xuất thế, đó là đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Ðộ chia làm bốn giai cấp: Bà La Môn
(Brahmanes), Sát Ðế Lỵ (Kastryas), Phệ Xá (Vaisyas) và Thủ Ðà (Soudas).
Ðức Phật Thích Ca sanh trong dòng quý tộc thuộc giai cấp thứ hai. Thân
sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-Gia
(Maya), ở thành Ca Tỳ La (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng
tròn, tháng hai Ấn Ðộ, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch Trung Hoa. Tên
Ngài là Sĩ Ðạt Ta (Sidhartha).
Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ Dì mẫu nuôi dưỡng cho
đến trưởng thành. Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm
thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa
thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương
cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng
sinh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng, và mọi lạc thú ở đời,
xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.
Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thấy học đạo. Ngài đã từng
tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A La Lã Ca Lan
(Aralah-Kalama) và Uất Ðà Già La Ma (Udraka-Kamaputar). Nhưng xét đến
kết quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.
Sau đó, Ngài từ giả họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn
uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại
kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con
đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại lối sống bình thường, vận
dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở
dưới cội Bồ đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được
mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử
luân hồi.
Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình liền nhập thế
phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm, chu du
đến một phần ba (1/3) xứ Ấn Ðộ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô
kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rakagrha)
nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thành Phệ Xá Ly (Vésali), thành Xá Vệ
(Shavasti) nước Câu Tát La (Kosala) v.v...
Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta la song thọ (Sala) ngoài thành Câu Thi
(Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết bàn
(Nibbana).
Biểu Tướng
Vào trong các chùa Phật giáo Bắc Tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một
tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự
giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Ðà, bên trái là Phật Di
Lặc (Phật tương lai). Lối thờ nầy tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích
Ca là Phật hiện tại, Phật Di Ðà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật
tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi
Ngài là đức Trung Tôn.
Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Ðộ, mà tùy ở nước nào tạo tượng
Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam
muội, đôi mắt khép lại ba phần tư (3/4).
Thâm Ý
Nhìn sơ qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy những điểm
cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người
Ấn Ðộ ngồi trên tòa cỏ dưới cội cây Bồ Ðề?
Bởi vì Bắc Tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con
người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân thường trụ. Hiện
thân Thái Tử Sĩ Ðạt Ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa
thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Ðã là hóa thân tùy cơ
cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. Vì thế,
ở Việt Nam, cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa
cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ...
Ðó là tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố
định nào. Ðức Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư
tưởng nầy, Bắc Tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất
gần gũi thân mật và phát sinh tín ngưỡng "Phật tùy tâm hiện". Ta hãy
nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tôn, khi ông nầy lên
núi cầu đạo:
"Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân
Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật,
không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài". (Khóa Hư Lục)
Ðã tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện
đến. Do đó phát sinh tín ngưỡng "Phật hiện cứu khổ mọi người". Cho nên,
những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện
mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa.
Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì
hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen
phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh
khiết. Ðó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác. Nằm
giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại còn
đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. Vì cái thanh tịnh
ngay giữa chỗ ô uế, mới chơn thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa bãi
cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy
lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà
lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ.
Ðức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta,
cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy
không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc. Ở
trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù
ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Ðức tánh
trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.
Bắc tông Phật giáo đặc trọng ý nghĩa "thanh tịnh trong ô nhiễm" nên chủ
trương "phiền não tức bồ đề", "sanh tử tức niết bàn". Không thể tìm Bồ
Ðề ngoài phiền não, không thể có Niết bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong
phiền não chúng ta khéo chuyển sẽ thành Niết bàn. Không chán sợ trốn
tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. Vì thế, đi đến chủ trương
"tích cực nhập thế". Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng sanh,
không thể có cõi Cực lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta bà uế trược.
Ðôi mắt đức Phật đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo
lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự
giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả.
Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh. Vì thế,
Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ
của mình.
Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành
vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một
hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm
niệm ác, một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình.
Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự
van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không
đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa
đổi hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua
Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận, tôn chỉ thiền,
Tuệ Trung Thượng sĩ đáp:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc" (Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được). (Tam tổ thực lục)
Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm chiêu nhìn xuống.
Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình, dù đi,
đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống. Khi chúng ta muốn
van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt
phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi nhìn lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các
vị thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ
trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.
Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ),
để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa
Nghiêm... trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ
Tát từ Sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy
trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho pháp thân. Vì chúng sanh không thể thấy
nên gọi là "Vô kiến đảnh tướng".
Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu
ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong
kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm.
Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác
thì hiện lên vừng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp
thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm
kính mến. Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ
ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào. Như
người hiền lành đến trước chúng ta, nhình thoáng gương mặt là ta có cảm
tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy
sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà nó
siêu hình thức. Thiết thực nhứt là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị
chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên
ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn qua
là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo
hóa. Ðức Phật là con người thuần thiện, tâm thanh tịnh, trí sáng suốt
thì ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.
Phật giáo Bắc Tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này
hình một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống.
Ðó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế, vừa lọt lòng mẹ đã có những
hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là:
Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết;
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Nghĩa là từ nhơn gian đến các cõi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh,
chết, chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc Tông
Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ "ta"
ám chỉ pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không gì bì kịp.
Ðây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích Ca.
Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ý thức
được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc
lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ý, rồi thể theo đó sống một cuộc đời
cao đẹp như Ngài.
0 Nhận xét